Mỏ Niken và tác động từ quá trình khai thác

Hình ảnh: Indonesia Nickle Industry by Muhammad Fadli

Niken là nguyên tố kim loại sáng bóng và có màu trắng bạc. Đây là nguyên tố phổ biến thứ năm trên Trái đất và xuất hiện nhiều tại lớp vỏ cũng như vùng lõi. Nguồn tài nguyên niken của thế giới hiện ước tính khoảng gần 350 triệu tấn. Quặng chứa niken đang được khai thác ở hơn 25 quốc gia trên toàn thế giới. Khu vực Châu Á Thái Bình Dương chiếm hơn 70% sản lượng niken toàn cầu. Các nước sản xuất niken lớn nhất có thể kể đến Indonesia, Philippines, Nga, Úc và Canada. [1]

Niken là kim loại thiết yếu trong cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại, được sử dụng đáng kể trong thép không gỉ ( ∼ 58%), hợp kim gốc niken ( ∼ 14%), thép đúc và thép hợp kim ( ∼ 9%), mạ điện ( ∼ 9%) và pin sạc ( ∼ 5%). [2] Với nhu cầu cao về niken đối với pin và cơ sở hạ tầng năng lượng sạch, không có gì ngạc nhiên khi nhu cầu niken toàn cầu dự kiến sẽ vượt nguồn cung vào năm 2024. Sự khan hiếm các mỏ niken sunfua cao cấp và tải lượng carbon khi khai thác đã thúc đẩy sự thăm dò các phương pháp khai thác kim loại mới. [3]

Niken có thể được sản xuất từ quặng oxy hóa (laterit) hoặc quặng sunfua, mỗi loại khoáng vật (và loại quặng) ảnh hưởng đến nhu cầu năng lượng trong quá trình khai thác và các giai đoạn xử lý tiếp theo. Việc khai thác các mỏ quặng oxit thường ít tiêu tốn năng lượng hơn, nhưng việc xử lý các loại quặng này ở giai đoạn sau đòi hỏi mức tiêu thụ năng lượng cao hơn đáng kể. Vị trí, độ sâu và hình dạng của mỏ quặng cũng có thể có tác động đáng kể đến nhu cầu năng lượng. Các mỏ ở khu vực xa hoặc tương đối khó tiếp cận đòi hỏi nhiều cơ sở hạ tầng, thiết bị chuyên dụng và mức tiêu thụ năng lượng lớn hơn. Vị trí địa lý và địa chất cũng quyết định các nguồn năng lượng. [4]

Việc khai thác và sản xuất niken có thể gây ra những tác động đáng kể đến môi trường, bao gồm ô nhiễm không khí và nước, suy thoái đất và phá hủy môi trường sống của động vật hoang dã. Khí thải từ quá trình nấu chảy và tinh chế quặng giàu niken có thể giải phóng các chất độc hại vào không khí, bao gồm sulfur dioxide, oxit nitơ và bụi. Việc giải phóng các hóa chất độc hại, chẳng hạn như kim loại nặng, vào các nguồn nước gần đó có thể tàn phá đời sống thủy sinh và sức khỏe của cộng đồng dân cư địa phương sống dựa vào các nguồn nước này để uống, tưới tiêu và các mục đích khác. Hoạt động khai thác quy mô lớn có thể phá hủy môi trường sống của động vật hoang dã, phá rừng và chia cắt hệ sinh thái. Việc mất môi trường sống có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với đa dạng sinh học địa phương và dẫn đến việc di dời các cộng đồng địa phương sống dựa vào những môi trường sống này. [5]

Ở Indonesia, niken được sản xuất từ các mỏ lộ thiên. Khai thác niken lộ thiên là một quá trình chuyên sâu có tác động đáng kể đến các khu rừng mưa nhiệt đới, ảnh hưởng đến thảm thực vật bản địa và độ phì nhiêu của đất. [6] Đã có nhiều công bố về hàng chục nhà máy chế biến niken tồn tại ở Sulawesi, một trong những hòn đảo lớn nhất thế giới nằm tại Indonesia, cùng với nhiều dự án. Môi trường khu vực bờ biển Sulawesi đã bị tàn phá do các mỏ niken. Đất bị ô nhiễm từ các mỏ niken chảy ra khỏi đồi khi trời mưa, biến vùng nước ven biển có màu đỏ đậm. [7] Mỏ ở quận Morosi, Đông Nam Sulawesi, rõ ràng đã ảnh hưởng đến điều kiện kinh tế xã hội của dân làng trong chính quyền [8]. Khai thác niken cũng đe dọa sức khỏe và môi trường của người dân đảo Obi, Kawasi , Bắc Maluku, Indonesia. Các mỏ và nhà máy lọc dầu tại Kawasi đổ chất thải trực tiếp xuống biển theo phương pháp được gọi là “đổ chất thải dưới biển sâu” (deep sea tailing placement – DSTP). DSTP là giải pháp thay thế xử lý chất thải rẻ hơn so với các phương pháp xử lý trên đất liền. Ngư dân Kawasi cho biết sản lượng đánh bắt đã giảm đáng kể và họ phải đi thuyền xa hơn để đánh bắt cá nhằm nuôi sống gia đình. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã có những báo cáo về mức độ nguy hiểm của kim loại nặng trong cá và vỏ sò tại địa phương mà thường được dân làng tiêu thụ. [9] Đó chỉ là một vài ví dụ ở Indonesia về các hoạt động khai thác niken kém hiệu quả gây ảnh hưởng đáng kể đến các khía cạnh môi trường và xã hội.

Liệu các nhà phát triển, công ty khai thác và các bên liên quan có thể thực hiện các nỗ lực hợp tác để đối phó với tác động của các mỏ niken không? Một điều cần lưu ý là các tác động có thể kéo dài hơn thời gian tồn tại của dự án. Do đó, nhà phát triển phải cam kết duy trì các thực hành tốt trước và sau khai thác theo các chính sách, tiêu chuẩn hoặc hướng dẫn của địa phương và quốc tế. Chính quyền cũng cần cam kết tăng cường các quy định của địa phương, thực hiện nghiêm túc việc thực thi pháp luật và liên tục theo dõi tác động của các mỏ. Cộng đồng bị ảnh hưởng phải được trao cơ hội bình đẳng để giải quyết khiếu nại và đề xuất biện pháp giảm thiểu cũng như biện pháp thực tế đối với mối quan ngại và nhu cầu của họ.

TLTK:

[1] “The life of Ni”, Nickle Institute, retrieved online from https://nickelinstitute.org/media/1190/thelifeofni.pdf (Aug, 2023)

[2] Mudd, G.M, 2010, “Global trends and environmental issues in nickel mining: Sulfides versus laterites”, Ore Geology Reviews, Volume 38, Issues 1–2, October 2010, Pages 9-26, retrieved online from https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0169136810000569 (Aug, 2023)

[3] Conte, N, 2021, “The World’s Largest Nickel Mining Companies”, retrieved from https://elements.visualcapitalist.com/the-worlds-largest-nickel-mining-companies/

[4] Boonzaier, S, et al., 2016, “Life cycle assessment of nickel products”,  Int J Life Cycle Assess (2016) 21:1559–1572, DOI 10.1007/s11367-016-1085-x, retrieved online from https://link.springer.com/article/10.1007/s11367-016-1085-x

[5] Shout Learning, “The Environmental Impacts of Nickel Mining and Production”, retrieved from https://shoutlearning.org/the-environmental-impacts-of-nickel-mining-and-production.html#:~:text=Emissions%20from%20the%20smelting%20and,contribute%20to%20global%20climate%20change.

[6] Tawaraya et al., 2020, “The Impact of Nickel Mining on Soil Properties and Growth of Two Fast-Growing Tropical Trees Species.”, Hindawi, International Journal of Forestry Research Volume 2020, Article ID 8837590, 9 pages, retrieved online from https://downloads.hindawi.com/journals/ijfr/2020/8837590.pdf 

[7] Brown, H, 2023, “‘The trees were all gone’: Indonesia’s nickel mines reveal the dark side of our electric future”, retrieved from https://www.euronews.com/green/2023/03/15/the-trees-were-all-gone-indonesias-nickel-mines-reveal-the-dark-side-of-our-electric-futur

[8] Masri, M et al., 2020, “The Impact of Nickel Management on Community Socio-Economic Conditions in Morosi District Konawe Regency”, Indonesian Journal of Social and Environmental Issue, ISSN: 2722-1369 (Online), Volume 1, Issue 1 (April 2020): 1-4, retrieved online from https://ojs.literacyinstitute.org/index.php/ijsei

[9] Environmental Justice Atlas, 2015, “Nickel rush threatens the health and environment of Obi Island’s people, Indonesia”, retrieved online from https://ejatlas.org/conflict/local-health-threatened-by-nickel-mining-in-obi-island-indonesia

Tác giả: Hendra Winastu, Cộng sự chính của SOLEN – Điều phối viên hội đồng IPC
Biên tập: Moe Thazin Shwe, Cộng sự nghiên cứu của SOLEN – Thành viên hội đồng IPC

Ngày: 23/8/2023
Bài báo số: SOLEN-IPC-0024

Previous article

One thought on “Mỏ Niken và tác động từ quá trình khai thác

  1. Pingback: Bãi chôn lấp rác ở các nước ASEAN - SOLEN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *